Đông Tác

Nguyễn Chí Công

Trang nhà > Tư duy > Cổ điển > Phạm Quý Thích (1760–1825)

Phạm Quý Thích (1760–1825)

Đoạn trường tân thanh đề từ

Thứ Hai 15, Tháng Chín 2008

Phạm Quý Thích tự là Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường cư sĩ, tác giả các tập thơ chữ Hán như Thảo Đường Thi Tập, Lập Trai Văn Tập, Nam Hành Tập...

Phạm Quý Thích quê ở huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương); sau ngụ cư phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, Thăng Long (Hà Nội). Tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779) đỗ Tiến sĩ nhả Lê, sau đó được bổ Hiệu thảo Viện Hàn lâm kiêm chức Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc, làm quan giữ chức Thiêm Sai Tri Công Phiên,…. Gia Long lên ngôi, ông được bổ làm đốc học, được ít lâu thì xin từ chức. Gia Long năm thứ 10, ông được triệu vào kinh giữ chức sử quan, sau ông cáo bệnh về ẩn cư, dạy học ở quê nhà. Phạm Quý Thích từng làm quan với nhà Lê, nhà Nguyễn, nhưng bỏ trốn, không cộng tác với nhà Tây Sơn.

Những đóng góp về giáo dục, văn học được coi là thành công lớn nhất trong cuộc đời ông, đặc biệt về mảng thơ chữ Hán. Tương truyền ông là người đầu tiên đem Truyện Kiều ra giảng dạy học trò, có nhuận sắc lại chút ít tác phẩm của Nguyễn Du, đổi tên Ðoạn trường tân thanh thành Kim Vân Kiều tân truyện và đem khắc ván in ở phố Hàng Gai, Hà Nội.

Sau đây xin giới thiệu bài thơ chữ Hán "Đoạn trường tân thanh đề từ" (hoặc “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm”) và bản dịch Nôm của chính Phạm Quý Thích trong “Hoa đường nam hành thi tập” gồm 307 bài thơ vịnh cảnh vào kinh đô Huế, tặng bạn bè, thuật, hoài, mừng, viếng...

斷 腸 新 聲 題 辭

佳 人 不 是 到 錢 塘
半 世 煙 花 債 未 償
玉 面 豈 應 埋 水 國
冰 心 自 可 對 金 郎
斷 腸 夢 裏 根 緣 了
薄 命 琴 終 怨 恨 長
一 片 才 情 千 古 累
新 聲 到 底 為 誰 傷
范 貴 適

Phiên âm Hán-Việt:

Đoạn trường tân thanh đề từ

Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường
Bán thế yên hoa trái vị thường
Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ quốc
Băng tâm tự khả đối Kim Lang
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương

Phạm Quý Thích

Dịch nghĩa:

Đề cuốn Đoạn trường tân thanh

Người đẹp (mà) không đi đến sông Tiền Đường,
(Thì) nửa đời lầu xanh vẫn chưa trả xong nợ.
Mặt ngọc của nàng đâu cần phải chìm xuống thủy cung,
Tâm trong sáng của nàng xứng đáng gặp chàng Kim lắm.
Giấc mộng đoạn trường nay đã biết rõ nguồn cơn,
Khúc đàn Bạc mệnh dứt rồi nỗi hận còn vương.
Vì một mảnh tài tình mà ngàn năm còn lụy,
Tác phẩm Tân Thanh này vì ai mà thương cảm đau lòng.

Tác giả tự dịch thơ:

Đề cuốn Đoạn trường tân thanh

Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng còn tơ vướng chàng Kim Trọng
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm
Trời bắt làm gương để thế gian.


Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế là lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn nhìn thế nào được mà không thở than rền rĩ.

Nghĩa là bậc thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình. Tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn chúng ta vậy. Cho nên phàm người đã ít tình, tất là không có tài, chỉ nửa loà nửa sáng, sống chết trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ, như cá chim vậy.

Còn đến bậc tuyệt thế tài tình, mặt ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhứ, nổi tiếng đài gương, vịnh phú ngô đồng, khoe tài án bút, nếu một bậc quán tuyệt thiên thu như thế lại gặp được bậc chân chính tài nhân, kết duyên tác hợp, khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn gảy trăng lên, nguồn ái ân trọn nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một lục, người đương vào cảnh ấy đã không gặp phải nỗi khảm kha bất bình, thì người truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện Đoạn trường tân thanh làm gì?

Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường sai, tiếng hoàn lặng ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay; mặt ngọc vắng tênh, chỉ thấy hoa đào hớn hở. Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được tình; tài tình đã tuyệt thế, gặp toàn bước khảm kha, há không phải là con Tạo đang tay ách người quá lắm ru? Ấy chính là truyện Đoạn trường tân thanh vì đấy mà làm ra vậy.

Truyện Thuý Kiều chép ở trong lục Phong tình, ta không bàn làm gì. Lục Phong tình cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường lại là cái tiếng mới vậy.

Trong một tập thì chung lấy bốn chữ "Tạo vật đố tài" tóm cả một đời Thuý Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao; khi duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời trong cuốn văn tả như hệt, không khác gì một bức tranh vậy.

Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột, thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải.

Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: "Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy". Bèn vui mà viết bài tựa này.

Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một: người đời xưa thương người đời trước, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thực là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời này vậy.

Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ cái nợ sầu của hai chữ đa tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được nối ở sau cuốn Tân thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc Đoạn trường để than khóc người xưa.

Tháng hai, niên hiệu Minh Mạng, viết ở Thán hoa hiên đất Hạc giang.

Tiên phong Mộng liên đường chủ nhân (tức Phạm Quý Thích)