Đông Tác

Blog

Trang nhà > Cuộc sống > Du lịch > 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam

11 world biosphere reserves in Vietnam

11 khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam

Chủ Nhật 30, Tháng Giêng 2022, bởi Cong_Chi_Nguyen

Vườn Quốc gia Núi Chúa

Có tổng diện tích lên đến trên 106.646 ha, hệ sinh thái khô hạn đặc trưng Đông Nam Á ở tỉnh Ninh Thuận và Cao nguyên Kon Hà Nừng tại tỉnh Gia Lai đã được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. tại kỳ họp lần thứ 33 Hội đồng Điều phối Quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển diễn ra từ ngày 13 đến 17/9/2021 tại Nigeria.

Cũng như Cát Bà, khu vực Núi Chúa của Ninh Thuận là một vùng địa hình thấp, ven biển thuộc tiểu vùng khí hậu khô hạn nhất Việt Nam. Nơi đây có trên 300 ngày nắng trong một năm, lượng mưa tương đối ít, nhưng có tới 6 kiểu rừng khác nhau phân bố từ sát bờ biển lộng gió cho đến nơi cao nhất là đỉnh Núi Chúa với độ cao 1.039 mét so với mực nước biển. Vì vậy, hệ thực vật Núi Chúa rất đặc trưng gồm đá sa thạch già, núi thoải, cây bụi gai rất nhiều để tiết chế mất nước với hệ động thực vật đặc trưng riêng. Núi Chúa là mẫu chuẩn duy nhất về hệ sinh thái rừng khô hạn đặc trưng và độc đáo của Việt Nam cũng như của Đông Nam Á và là một trong 200 vùng sinh thái quan trọng toàn cầu được lựa chọn là vùng ưu tiên bảo tồn cao nhất trong tất cả các kiểu sinh cảnh chính trên Trái Đất.

Thác trong khu dự trữ sinh quyển Kon Hà Nừng (Ảnh VNA)

Hiện nay, phía giáp biển của Vườn Quốc gia Núi Chúa được xây mới một con đường ven biển lượn vòng cung theo địa hình, tuyệt đẹp để du ngoạn với một bên là biển, một bên là rừng. Đây cũng là con đường nối tour du lịch trọng điểm của Ninh Thuận gồm Vườn Quốc gia Núi Chúa, Hang Rái và vườn nho, bãi rùa đẻ, lặn biển ngắm san hô, giao tiếp với dân tộc Raglai… Khu vực này thực sự giàu tiềm năng và tài nguyên, trước mắt cũng như lâu dài cho du lịch.

Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ

Được thiên nhiên ưu ái cho cảnh quan tươi đẹp, hệ thống động thực vật đa dạng, phong phú cả về số lượng và chủng loại, rừng ngập mặn Cần Giờ đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển đầu tiên của Việt Nam (nằm trong mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển của thế giới) vào ngày 21/1/2000. Đây cũng là khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO ghi danh.

Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ (Ảnh VNA)

Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh gần 40km, có tổng diện tích hơn 75.000 hécta, trong đó vùng lõi rộng 4.721 hécta, vùng đệm 41.000 hécta và vùng chuyển tiếp 29.000 hécta. Nơi đây là một quần thể gồm các loài động, thực vật rừng và thủy sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây.

Theo kết quả tổng hợp của Viện Sinh thái học miền Nam, hệ thực vật rừng ngập mặn Cần Giờ ghi nhận 296 loài, nhóm thực vật ngập mặn; là nơi sinh sống của nhiều loại động thực vật quý hiếm thuộc Danh mục Sách đỏ Việt Nam. Không chỉ là địa điểm lý tưởng phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn có ý nghĩa to lớn đối với bảo vệ môi trường. Đây được coi là “lá phổi” có chức năng làm sạch không khí và nước thải từ các thành phố trong thượng nguồn sông Ðồng Nai-Sài Gòn đổ ra biển Ðông.

Cồn Nổi, Kim Sơn (Ninh Bình)

Các khu dự trữ sinh quyển khác

Gần 1 năm sau khi Khu vực Cần Giờ được ghi danh, ngày 10/11/2001, Khu vực Đồng Nai tiếp tục được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam. Nơi đây được xem như “lá phổi xanh” của miền Ðông Nam Bộ với giá trị đa dạng sinh học cao, có rừng mưa ẩm nhiệt đới cuối cùng còn sót lại ở miền Nam và rất nhiều loài động, thực vật quý hiếm.

Trong các năm tiếp theo, Việt Nam tiếp tục có thêm 2 khu vực được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đó là Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (được xem là trung tâm đa dạng sinh học lớn của Việt Nam) và Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng. Cả hai khu dự trữ sinh quyển này đều được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ ngày 2/12/2004.

Vườn Quốc gia Pù Mát

Tiếp đó là Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang được UNESCO công nhận năm 2006; Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An (năm 2007); Khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau và Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm (năm 2009); Khu dự trữ sinh quyển Langbiang được công nhận năm 2015.

Mô hình phát triển kinh tế-xã hội bền vững

Nhìn lại quá trình phát triển “kho báu thiên nhiên” Việt Nam trong suốt 20 năm qua, có thể thấy các khu dự trữ sinh quyển thế giới của nước ta không chỉ là danh hiệu được UNESCO công nhận, mà còn đang dần trở thành mô hình phát triển kinh tế-xã hội bền vững của địa phương. Trong số đó, có những khu dự trữ sinh quyển sau khi được ghi danh đã trở nên nổi tiếng thế giới, thu hút đông đảo khách du lịch tới tham quan, nhờ đó tốc độ phát triển nhanh hơn gấp nhiều lần.

Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau (Ảnh VNA)

Điển hình như Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (thành phố Hải Phòng), trong vòng 16 năm qua đã liên tục bứt phá nhiều dấu mốc mới trong phát triển kinh tế-xã hội. Không chỉ dự trữ sinh quyển cho nhân loại, đây còn được xem là khu vực dự trữ nguồn sống, dự trữ cả tương lai sinh tồn và sự phát triển cho quốc gia sở hữu nó.

Với 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới được coi là “khó báu thiên nhiên” trong giai đoạn 2000-2021, Việt Nam đã trở thành quốc gia có số lượng khu dự trữ sinh quyển thế giới đứng thứ 2 Đông Nam Á. Đây là những khu vực có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao, có tiềm năng trở thành các mô hình phát triển bền vững.

Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (Ảnh VNA)

Hơn 20 năm tham gia mạng lưới khu dự trữ sinh quyển thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong việc mở rộng mạng lưới Khu dự trữ sinh quyển thế giới: Xếp hạng thứ 16 trong số các nước có đa dạng sinh học cao nhất thế giới và là một trong 10 trung tâm giàu đa dạng sinh học nhất của hành tinh.

Bên cạnh đó, công tác bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển mạng lưới khu dự trữ sinh quyển thế giới đã huy động được sự tham gia của nhiều bộ, ngành, đặc biệt là các địa phương sở hữu khu dự trữ sinh quyển thế giới, các tổ chức bảo tồn trong nước và quốc tế; từ đó đóng góp vào việc bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, các loài hoang dã nguy cấp, quý hiếm, bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam và thế giới.

Khu dự trữ sinh quyển Langbiang

Dù đã đạt được những kết quả nổi bật, song một số chuyên gia cũng cho rằng việc quản lý và phát triển các khu dự trữ sinh quyển hiện đang tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Hầu hết các khu bảo tồn, dự trữ sinh quyển nằm ở các khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao nên việc đạt được mục tiêu vừa bảo tồn vừa phát triển kinh tế gặp không ít khó khăn.

Ngoài ra, cũng còn các rào cản khác như thiếu khuôn khổ chung để thực hiện các giải pháp tích hợp trong phát triển bền vững; việc tổ chức và điều phối sự tham gia của các bên liên quan tại các khu dự trữ sinh quyển còn chưa hiệu quả; năng lực về lập kế hoạch, quy hoạch trên cơ sở tiếp cận cảnh quan chưa tốt.